1. Muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải có điều kiện gì ?
Theo Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại, tranh chấp được giải quyết bằng Trọng
tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước
hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Như vậy, điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài là phải có thỏa thuận trọng tài.
2. Trường hợp các bên đã ký thỏa thuận trọng tài nhưng khi tranh chấp phát sinh,
một bên có thể khởi kiện tại Tòa án được hay không?
Theo Điều 6 Luật Trọng tài thương mại, trong trường hợp các bên tranh chấp đã có
thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Toà án phải từ chối thụ
lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được
3. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong những trường hợp nào?
Theo Điều 18 Luật Trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài vô hiệu trong các trường
hợp sau:
a) Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài
quy định tại Điều 2 của Luật này.
b) Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật.
c) Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy
định của Bộ luật dân sự.
d) Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của
Luật này.
e) Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận
trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
f) Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
4. Trường hợp nào thì thỏa thuận trọng tài bị coi là không thể thực hiện được? Theo
Điều 4 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP, thoả thuận trọng tài bị coi là không thể thực
hiện được là các trường hợp:
a) Trung tâm trọng tài nơi các bên đã có thoả thuận giải quyết tranh chấp đã chấm
dứt hoạt động mà không có tổ chức kế thừa và các bên không có thoả thuận thay thế;
b) Trọng tài viên trọng tài vụ việc mà các bên đã có thoả thuận lựa chọn không thể
tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan;
hoặc Toà án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên yêu cầu và các bên không
có thoả thuận thay thế;
c) Trọng tài viên trọng tài vụ việc mà các bên đã có thoả thuận lựa chọn từ chối
hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không có
thoả thuận thay thế;
d) Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng
lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác mà điều lệ của
Trung tâm trọng tài các bên chọn không cho phép và các bên không thỏa thuận được
về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
e) Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận
trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ
do nhà cung cấp soạn sẵn nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng
ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.
5. Thỏa thuận trọng tài được thể hiện bằng những hình thức nào?
Theo Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài phải được xác
lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập
dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex,
thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép
lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng
tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của
thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
6. Trường hợp các bên vừa thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài vừa thỏa
thuận giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thì cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết ?
Khoản 4 Điều 2, Nghị quyết số: 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/03/2014 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương
mại quy định như sau:
“4. Trường hợp các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, vừa
có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Tòa án mà các bên không có thỏa thuận lại
hoặc thỏa thuận mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này mà phát sinh tranh chấp thì xử lý như sau:
a) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp trước khi
yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp
khi Tòa án chưa thụ lý vụ án quy định tại điểm b khoản 4 Điều này thì Tòa án căn
cứ quy định tại Điều 6 Luật Trọng tài thương mại để từ chối thụ lý, giải quyết.
Trong trường hợp này, khi nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện,
nếu đã thụ lý vụ án thì căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại
đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.
b) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, thì ngay sau
khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xác định một trong các bên đã yêu cầu Trọng
tài giải quyết hay chưa.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà Tòa án xác
định người bị kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì
Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp người bị kiện, người
khởi kiện chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem xét thụ lý
giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án mà phát hiện tranh chấp đã có yêu cầu Trọng tài
giải quyết trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm
i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không
thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo
đơn khởi kiện.”
7. Thỏa thuận trọng tài và hợp đồng có quan hệ như thế nào?
Theo Điều 19 Luật Trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với
hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể
thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài.
8. Thời hiện khởi kiện tại Trọng tài được quy định như thế nào?
Theo Điều 33 Luật Trọng tài thương mại, trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy
định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
9. Khi nào thì được coi là mất quyền phản đối?
Theo Điều 13 Luật Trọng tài thương mại, trong trường hợp một bên phát hiện có vi
phạm quy định của Luật này hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện
tố tụng trọng tài và không phản đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy
định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Tòa án.
Điều 6 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại quy định như sau:
“Điều 6. Mất quyền phản đối quy định tại Điều 13 Luật Trọng tài thương mại
1. Trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định Luật Trọng tài thương mại hoặc
của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản
đối với Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài những vi phạm đó trong thời hạn
do Luật Trọng tài thương mại quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài, hoặc
tại Tòa án đối với những vi phạm đã biết đó. Trường hợp Luật Trọng tài thương mại
không quy định thời hạn thì thời hạn được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc
quy tắc tố tụng trọng tài. Trường hợp các bên không thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng
trọng tài không quy định thì việc phản đối phải được thực hiện trước thời điểm Hội
đồng trọng tài tuyên phán quyết.
2. Trước khi xem xét yêu cầu của một hoặc các bên về việc có vi phạm quy định Luật
Trọng tài thương mại hoặc của thỏa thuận trọng tài, Tòa án phải kiểm tra các tài
liệu, chứng cứ, quy tắc tố tụng trọng tài để xác định đối với yêu cầu đó, một hoặc
các bên có mất quyền phản đối hay không mất quyền phản đối.
Trường hợp Tòa án xác định vi phạm đã mất quyền phản đối quy định tại Điều 13 Luật
Trọng tài thương mại và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này thì bên đã mất quyền phản
đối không được quyền khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài, yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài đối với những vi phạm đã mất quyền phản đối đó. Tòa án không được
căn cứ vào các vi phạm mà một hoặc các bên đã mất quyền phản đối để quyết định chấp
nhận yêu cầu của một hoặc các bên.
Khi giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án có trách nhiệm xem xét theo
quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại.
Trường hợp xét thấy có đủ căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu thì Tòa
án có quyền quyết định ngay cả khi một hoặc các bên đã mất quyền phản đối”.
10. Các bên có thể thỏa thuận địa điểm trọng tài được không? Trường hợp các bên
không có thỏa thuận thì địa điểm trọng tài được xác định như thế nào?
Theo Điều
22 Quy tắc VNEAC, địa điểm trọng tài do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp không
có thỏa thuận thì Hội đồng Trọng tài quyết định địa điểm trọng tài mà Hội đồng Trọng
tài cho là phù hợp. Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, Hội đồng Trọng tài có thể
tiến hành các phiên họp giải quyết vụ tranh chấp tại bất kỳ nơi nào mà Hội đồng
Trọng tài cho là phù hợp. Hội đồng Trọng tài có thể tổ chức các cuộc họp bằng hình
thức và tại bất kỳ nơi nào mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp.
11. Các bên có thể thỏa thuận ngôn ngữ trọng tài được không? Trường hợp các bên
không có thỏa thuận thì ngôn ngữ trọng tài được xác định như thế nào?
Điều 23 Quy
tắc VNEAC quy định như sau:
Đối với vụ tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, ngôn ngữ trọng tài là tiếng Việt.
Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài hoặc vụ tranh chấp trong đó có ít nhất
một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngôn ngữ trọng tài do các bên
thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, Hội đồng Trọng tài quyết
định ngôn ngữ hoặc các ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài, có tính đến các
yếu tố có liên quan bao gồm ngôn ngữ của hợp đồng. Nếu một tài liệu được lập bằng
ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ trọng tài thì Hội đồng Trọng tài hoặc Trung tâm,
nếu Hội đồng Trọng tài chưa được thành lập, có thể yêu cầu một bên hoặc các bên
cung cấp bản dịch.
12. Các bên có thể thỏa thuận luật áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp được không?
Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì việc xác định luật áp dụng được thực
hiện như thế nào?
Điều 24 Quy tắc VNEAC quy định như sau:
Đối với vụ tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp
luật Việt Nam.
Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật
do các bên thỏa thuận; trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật
áp dụng thì Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng Trọng tài
cho là phù hợp nhất.
Trong mọi trường hợp, Hội đồng Trọng tài phải xem xét các điều khoản của hợp
đồng, nếu có, để giải quyết vụ tranh chấp.
Hội đồng Trọng tài có thể áp dụng tập quán thích hợp để giải quyết vụ tranh chấp.