THẨM QUYỀN
TRỌNG TÀI
Thẩm quyền trọng tài, trong
điều 2 trong Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì chưa đủ về thẩm quyền, vì
chỉ có 3 khoản; theo đó Trọng tài thương mại được giải quyết các tranh chấp:
(Khoản 1); Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại (Khoản 2);
Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại và (Khoản 3) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải
quyết bằng Trọng tài.
Như vậy, ngoài các tranh chấp
thương mại giữa các doanh nghiệp với hành vi kinh doanh; chiếu theo khoản 3,
điều 2, Luật Trọng tài thương mại, thẩm quyền trung tâm trọng tài còn xét xử
các tranh chấp sau đây:
1) Tranh chấp về đầu tư
Điều 14 Luật
Đầu tư năm 2014. Theo đó, Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh
tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp không
thương lượng, hòa giải được thì tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài hoặc
Tòa án;
Cụ thể:
(i) Tranh chấp
giữa các nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoặc
giữa nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh
thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam.
(ii) Tranh
chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc
tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật Đầu tư được giải quyết
thông qua một trong những cơ quan, tổ chức sau đây: Tòa án Việt Nam, Trọng tài
Việt Nam, Trọng tài nước ngoài, Trọng tài quốc tế, Trọng tài do các bên tranh
chấp thỏa thuận thành lập;
(iii) Tranh
chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan
đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông
qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
theo hợp đồng hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
2)
Tranh chấp nội bộ giữa các thành viên góp vốn trong công ty TNHH, công ty cổ
phần
Luật Doanh
nghiệp 2020 có rất nhiều điểm mới tích cực, tạo lập môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đó là không chỉ cho
phép các cổ đông, thành viên góp vốn được quyền yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết của
đại hội đồng cổ đông, Nghị quyết của Hội đồng thành viên mà còn tạo hành lang
cho họ được lựa chọn phương thức tố tụng Trọng tài thương mại hoặc Tòa án để
thực hiện quyền này.
Căn cứ pháp lý
là các điều:
Điều 62. Hiệu lực nghị
quyết, quyết định của Hội đồng thành viên
1. Trường hợp
Điều lệ công ty không có quy định khác, nghị quyết, quyết định của Hội đồng
thành viên có hiệu lực thi hành kể từ ngày được thông qua hoặc từ ngày có hiệu
lực được ghi tại nghị quyết, quyết định đó.
2. Nghị quyết,
quyết định của Hội đồng thành viên được thông qua bằng 100% tổng số vốn điều lệ
là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả trong trường hợp trình tự và thủ tục thông
qua nghị quyết, quyết định đó không được thực hiện đúng quy định.
3. Trường hợp
thành viên, nhóm thành viên yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài hủy bỏ nghị quyết,
quyết định đã được thông qua thì nghị quyết, quyết định đó vẫn có hiệu lực thi
hành theo quy định tại khoản 1 Điều này cho đến khi có quyết định hủy bỏ của
Tòa án hoặc Trọng tài có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Điều 151. Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết Đại hội đồng cổ đông
Trong thời hạn
90 ngày kể từ ngày nhận được nghị quyết hoặc biên bản họp Đại hội đồng cổ đông
hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông, cổ đông, nhóm
cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 115 của Luật này có
quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần
nội dung nghị quyết Đại hội đồng cổ đông trong các
trường hợp sau đây:
1. Trình tự,
thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của Đại hội đồng cổ đông vi phạm nghiêm
trọng quy định của Luật này và Điều lệ công ty, trừ trường hợp quy định tại khoản
2 Điều 152 của Luật này;
2. Nội dung
nghị quyết vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty.
Điều 152. Hiệu lực của nghị quyết Đại hội đồng cổ đông
1. Nghị quyết
Đại hội đồng cổ đông có hiệu lực kể từ ngày được thông qua hoặc từ thời điểm có
hiệu lực ghi tại nghị quyết đó.
2. Nghị quyết
Đại hội đồng cổ đông được thông qua bằng 100% tổng số cổ phần có quyền biểu
quyết là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình tự, thủ tục triệu tập họp và
thông qua nghị quyết đó vi phạm quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
3. Trường hợp
có cổ đông, nhóm cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài hủy bỏ nghị quyết Đại
hội đồng cổ đông theo quy định tại Điều 151 của Luật này,
nghị quyết đó vẫn có hiệu lực thi hành cho đến khi quyết định hủy bỏ nghị quyết
đó của Tòa án, Trọng tài có hiệu lực, trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
3) Tranh chấp trong xây dựng:
Các tranh chấp
trong lĩnh vực xây dựng chủ yếu liên quan đến Hợp đồng xây dựng (thi công, tư
vấn giám sát, thiết kế, cung cấp nhân lực, chìa khóa trao tay…), các hợp đồng
này phần lớn là đồng mẫu hoặc các điều khoản của hợp đồng được quy định khá rõ
tại Nghị định 37/2015/NĐ-CP ngày 22/05/2015 và hướng dẫn chi tiết tại các Thông
tư của Bộ Xây dựng ban hành.
Khi phát sinh
tranh chấp các bên phải theo nguyên tắc và trình tự quy định tại Khoản 8
Điều 146 Luật Xây dựng năm 2014: (i) Tôn trọng các thỏa thuận hợp đồng và
các cam kết trong quá trình thực hiện hợp đồng, bảo đảm bình đẳng và hợp tác;
(ii)Các bên hợp đồng có trách nhiệm tự thương lượng giải quyết tranh
chấp. Trường hợp các bên hợp đồng không tự thương lượng được thì
tranh chấp được giải quyết thông qua hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án
theo quy định của pháp luật.
Qua quy định
này chúng ta có thể nhận định: Trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng xây
dựng các bên có quyền thỏa thuận điều khoản Trọng tài trong hợp đồng xây dựng
hoặc khi phát sinh tranh chấp các bên có thể lựa chọn Trọng tài thương mại để
giải quyết tranh chấp.
4) Tranh
chấp về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng nhà khi cho thuê:
Luật
nhà ở 2023 quy định Điều 194. Giải quyết tranh chấp về nhà ở "1. Nhà nước
khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp về nhà ở thông qua hòa giải. 2.
Tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng nhà ở của tổ chức, cá nhân, tranh
chấp liên quan đến giao dịch về nhà ở, quản lý vận hành nhà chung cư doTòa án,
Trọng tài thương mại giải quyết theo quy định của pháp luật." Lưu ý, Luật
Nhà ở 2023 này, các hợp đồng mua bán căn hộ chung cư, cho thuê nhà xưởng, sử
dụng căn hộ chung cư, nếu có tranh chấp cũng thuộc thẩm quyền của Trọng tài
thương mại giải quyết khi các bên có thỏa thuận.
5) Tranh
chấp trong thị trường chứng khoán
Các chủ thể
tham gia thị trường chứng khoán bao gồm: Nhà phát hành (cung cấp chứng khoán,
chủ yếu các công ty đại chúng, các tổ chức tài chính…); nhà đầu tư (các cá
nhân, các tổ chức mua bán chứng khoán); Các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên
quan đến thị trường chứng khoán như: Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán, Sở Giao
dịch chứng khoán, các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ chứng khoản,
Quỹ đầu tư chứng khoán, các công ty kiểm toán độc lập….
Thị trường
chứng khoán Việt Nam khá non trẻ và Luật chứng khoán 2006 cũng là văn bản Luật
đầu tiên điều chỉnh thị trường này (trước đó chỉ là Nghị định, Thông tư..) và
tại Khoản 1 Điều 131 Luật chứng khoán năm 2006 đã có quy định: Tranh chấp phát
sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam có thể
được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải hoặc yêu cầu Trọng tài hoặc
Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong
lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, Trọng tài là một trong các
phương thức giải quyết tranh chấp,.
6)
Trong Pháp luật về Hàng không dân dụng
Điều 173 Luật
Hàng không dân dụng 2006 sửa đổi bổ sung 2014 quy định: (i) Các bên của
hợp đồng vận chuyển hàng hóa có thể thoả thuận giải quyết tranh chấp phát sinh
bằng Trọng tài. Thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản; (ii) Đối với
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế liên quan đến
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển, việc giải quyết bằng
Trọng tài tại Việt Nam chỉ được thực hiện trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 172 của Luật Hàng không dân dụng; Quy định này được coi
là một phần của bất kỳ điều khoản hoặc thoả thuận trọng tài nào. Mọi điều khoản
và thoả thuận trọng tài trái với quy định này đều bị coi là vô hiệu.
Tuy nhiên khi
xem xét các bên trong Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế liên quan đến trách
nhiệm bồi thường quy định tại Điều luật này, cần lưu ý: Người vận chuyển có trụ
sở chính hoặc địa điểm kinh doanh chính tại Việt Nam; Người vận chuyển có địa
điểm kinh doanh và giao kết hợp đồng vận chuyển tại Việt Nam; Việt Nam là địa
điểm đến của hành trình vận chuyển.
Và hợp đồng
vận chuyển quốc tế mà theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng, địa điểm xuất
phát và địa điểm đến trên lãnh thổ của hai quốc gia hoặc trên lãnh thổ của một
quốc gia nhưng có địa điểm dừng thoả thuận trên lãnh thổ của một quốc gia khác,
không kể có gián đoạn trong vận chuyển hoặc chuyển tải.
7) Trong vấn đề tranh chấp sở hữu trí
tuệ
Trong tài có
thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, căn cứ vào điều 198,
khoản 1, điểm d. Quyền tự bảo vệ “1. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp
dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình: Khởi kiện
ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”
8)
Tranh chấp hàng hải
Có thể nói
rằng trong lĩnh vực hàng hải, pháp luật đã quy định khá rõ nét về khái niệm,
nguyên tắc giải quyết, thẩm quyền và tố tụng trong Bộ luật Hàng hải 2015. Tranh
chấp hàng hải được hiểu là các tranh chấp phát sinh liên quan đến hoạt động
hàng hải (các hoạt động có liên quan về tàu biển, thuyền viên, cảng biển, luồng
hàng hải, cảng cạn, vận tải biển, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải, bảo vệ
môi trường biển, quản lý nhà nước về hàng hải).
Tại Điều 338
Bộ luật Hàng hải 2015 quy định nguyên tắc giải quyết tranh chấp hàng hải: (i)
Các bên liên quan có thể giải quyết tranh chấp hàng hải bằng thương lượng, thỏa
thuận hoặc khởi kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án có thẩm quyền; (ii) Tranh chấp
hàng hải được Trọng tài hoặc Tòa án giải quyết theo thẩm quyền thủ tục do pháp
luật quy định
Và Điều 339
quy định rõ hơn về chủ thể trong quan hệ tranh chấp hàng hải quy định: (i)
Trường hợp hợp đồng có ít nhất một bên là tổ chức, cá nhân nước ngoài thì các
bên tham gia hợp đồng có thể thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại Trọng
tài hoặc Tòa án ở nước ngoài; (ii) Trường hợp các bên liên quan đến tranh chấp
hàng hải đều là tổ chức, cá nhân nước ngoài và có thỏa thuận bằng văn bản giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài Việt Nam thì Trọng tài Việt Nam có quyền giải
quyết đối với tranh chấp hàng hải đó, ngay cả khi nơi xảy ra tranh chấp ngoài
lãnh thổ Việt Nam; (ii) Tranh chấp hàng hải tại (ii) cũng có thể được giải
quyết tại Tòa án Việt Nam nếu căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ giữa
các bên liên quan đến tranh chấp hàng hải theo pháp luật Việt Nam hoặc tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở Việt Nam.
9) Tranh
chấp về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Trong những
năm gần đây, người tiêu dùng đã tiến hành khởi kiện bên cung cấp hàng hóa, dịch
vụ khá nhiều vì họ cho rằng, quyền và lợi ích của họ đã bị xâm phạm. Luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 tại Điều 30 quy định: (i) Tranh chấp phát
sinh giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được
giải quyết thông qua: Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài, Tòa án; (ii) Không
được thương lượng, hòa giải trong trường hợp tranh chấp gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng.
Tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông báo về điều khoản trọng tài trước
khi giao kết hợp đồng và được người tiêu dùng chấp thuận. Trường hợp điều khoản
trọng tài do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đưa vào hợp đồng
theo mẫu hoặc điều kiện giao dịch chung thì khi xảy ra tranh chấp, người tiêu
dùng là cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp khác.
Thông qua điều
luật này, chúng ta thấy, người tiêu dùng hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn
giữa Tòa án, Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, kể cả trong trường
hợp có thỏa thuận Trọng tài.
Theo quy định
của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, khi có Thỏa thuận trọng tài mà thỏa thuận đó
có giá trị pháp lý thì Tòa án sẽ từ chối nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện
và hướng dẫn người khởi kiện nộp đơn kiện tại Trung tâm trọng tài mà các bên đã
chọn. Tuy nhiên với Điều 38 này, người tiêu dùng vẫn có thể yêu cầu Tòa án thụ
lý đơn kiện và giải quyết vụ án nếu người tiêu dùng khởi kiện nhà cung cấp hàng
hóa dịch vụ.
10)
Tranh chấp về thiệt hại trong pháp luật về Môi trường cũng do Trọng tài
giải quyết
Trong Luật bảo
vệ môi trường 2014 không quy định thẩm quyền của Trọng tài được giải quyết
tranh chấp về môi trường, nhưng tại Điều 14 Nghị định 03/2015/NĐ-CP ngày
06/01/2015 hướng dẫn Luật bảo vệ môi trường 2015 quy định việc giải quyết bồi
thường thiệt hại đối với môi trường, theo đó: Trên cơ sở dữ liệu, chứng cứ và
kết quả tính toán thiệt hại, cơ quan quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định này
quyết định giải quyết bồi thường theo các hình thức: Thỏa thuận việc bồi thường
với người gây thiệt hại, yêu cầu trọng tài giải quyết, khởi kiện tại tòa án.
Kết
luận
Thẩm quyền giải quyết của Trọng tài có phạm
vi khá rộng, không chỉ các tranh chấp ít nhất một bên có hoạt động thương mại
mà còn có các tranh chấp khác không phát sinh trong hoạt động thương mại thì
Trọng tài vẫn có thẩm quyền giải quyết khi có quy định của pháp luật nhưng khi
giải quyết tranh chấp đó buộc phải viện dẫn các quy định của pháp luật có liên
quan và Khoản 3 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
Những liệt
kê trên đây còn chưa hết, vì quy định giải quyết tranh chấp bằng trọng tài còn tản
mát trong rất nhiều các văn bản luật khác. Chỉ có vấn đề quan trọng nhất là, những
chủ thể kinh doanh hiện nay ở Việt Nam, còn rất ít người biết đến phương thức
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Một vấn đề quan trọng, khi các bên đã có
văn bản thỏa thuận trọng tài, khi có tranh chấp mà một bên đưa đơn kiện ra Tòa
án theo thẩm quyền lãnh thổ, nhưng Tòa án đó không được phép thụ lý và sẽ bác bỏ
đơn khởi kiện của nguyên đơn để buộc đưa về Trung tâm trọng tài giải quyết phân
xử.
Trung tâm Trọng tài Liên đoàn Doanh nghiệp
Việt Nam
Lê Học Lâm